Tổng thống Hoa Kỳ 1981–1989 Ronald_Reagan

Ông bà Reagan vẫy tay từ xe limousine đưa họ xuống Đại lộ Pennsylvania đến Tòa Bạch Ốc sau lễ nhậm chức tổng thống

Trong thời làm tổng thống, Reagan theo đuổi các chính sách phản ánh niềm tin cá nhân của ông về tự do cá nhân, mang đến những thay đổi trong nước, cả về nền kinh tế Hoa Kỳ và mở rộng quân sự, góp phần kết thúc Chiến tranh lạnh.[109] Thời làm tổng thống của ông, được gọi là Cách mạng Reagan, đã tái tiếp sức tinh thần Mỹ[110][111] và giảm thiểu sự phụ thuộc của người dân vào chính phủ.[109] Với tư cách là tổng thống, Reagan giữ một bộ nhật ký mà trong đó ông ghi lại những sự việc xảy ra hàng ngày trong thời gian làm tổng thống cũng như những quan điểm của ông về các vấn đề hàng ngày. Bộ nhật ký này được xuất bản vào tháng 5 năm 2007 và trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất với tựa đề The Reagan Diaries.[112]

Nhiệm kỳ thứ nhất 1981–1985

Reagan là người già nhất đắc cử tổng thống (lúc 69 tuổi) cho đến khi Donald Trump (lúc 70 tuổi) vượt Reagan để trở thành người già nhất đắc cử tổng thống vào ngày 8 tháng 11 năm 2016. Trong bài diễn văn nhậm chức đầu tiên ngày 20 tháng 1 năm 1981, do chính Reagan viết,[113] ông nói về căn bệnh kinh tế của quốc gia khi cho rằng: "Trong cuộc khủng hoảng hiện tại, chính phủ không phải là giải pháp cho những vấn đề của chúng ta; chính phủ là vấn đề."

Bị mưu sát

Ngày 30 tháng 3 năm 1981, chỉ 69 ngày sau khi nhận chức tổng thống, Reagan, bộ trưởng báo chí James Brady, sĩ quan cảnh sát thành phố Washington Thomas Delahanty, và nhân viên đặc vụ Timothy McCarthy bị trúng đạn từ kẻ suýt trở thành sát nhân tên là John Hinckley, Jr. bên ngoài Khách sạn Washington Hilton. Mặc dù "suýt chết" lúc đưa đến Bệnh viện Đại học George Washington, Reagan được ổn định trong phòng cấp cứu, rồi trải qua một cuộc giải phẫu khẩn cấp.[114] Ông hồi phục, rồi xuất viện vào ngày 11 tháng 4, và trở thành tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên thoát chết sau khi bị bắn trong một vụ mưu sát.[115] Vụ mưu sát này có ảnh hưởng rất lớn đối với sự ủng hộ của dân chúng dành cho Reagan; các cuộc thăm dò cho thấy tỉ lệ chấp thuận dành cho ông là khoảng 73%.[116] Reagan tin rằng Thượng đế đã giành lại cuộc sống cho ông để ông có thể tiếp tục hoàn thành một mục đích cao cả hơn.[117]

Vụ đình công của các nhân viên kiểm soát không lưu

Vào mùa hè năm 1981, PATCO, công đoàn của các nhân viên kiểm soát không lưu liên bang tiến hành đình công, họ đã vi phạm luật liên bang nghiêm cấm các công đoàn chính phủ (nhân viên chính phủ nhưng có gia nhập công đoàn) đình công.[118] Tuyên bố tình trạng khẩn cấp như được nêu trong Đạo luật Taft–Hartley năm 1947, Reagan phát biểu rằng nếu những nhân viên điều khiển không lưu "không đến làm việc trong vòng 48 giờ thì tư cách công việc của họ bị vô hiệu và họ sẽ bị đuổi việc".[119] Họ không trở lại làm việc và vào ngày 5 tháng 8, Reagan đuổi việc 11.345 nhân viên kiểm soát không lưu đang đình công, những người phớt lờ lệnh của ông. Reagan ra lệnh sử dụng những quản đốc và nhân viên kiểm soát không lưu quân sự trông coi không lưu thương mại quốc gia cho đến khi các nhân viên kiểm soát không lưu mới được tuyển dụng và đào tạo.[120] Theo như một bản tóm tắt tham khảo hàng đầu về sự quản lý công cộng đã kết luận "Việc đuổi việc các nhân viên thuộc công đoàn PATCO không chỉ chứng tỏ một giải pháp mạnh của tổng thống, người nắm trong tay bộ máy hành chính của chính phủ, mà nó cũng gửi một thông điệp rõ ràng đến khu vực tư nhân rằng các công đoàn không cần phải bị lo sợ nữa."[121]

"Reaganomics" và nền kinh tế

Trong suốt năm cuối cùng của tổng thống Jimmy Carter (1980), lạm phát trung bình là 12,5%, so với 4,4% suốt năm cuối cùng tại chức của tổng thống Reagan (1988).[122] Trong thời chính phủ Reagan, tỉ lệ thất nghiệp giảm từ 7,5% xuống 5,4%, với tỉ lệ lên đến mức cao là 10,8% năm 1982 và 10,4% năm 1983, trung bình 7,5% trong vòng tám năm ông tại chức.[123][124]

Reagan diễn thuyết trên truyền hình từ Văn phòng Bầu dục, sơ lược kế hoạch của ông về luật giảm thuế vào tháng 7 năm 1981.

Reagan triển khai các chính sách dựa vào chủ nghĩa kinh tế học trọng cung và chủ trương tán thành triết lý laissez-faire (tự do kinh tế) và Chủ nghĩa tự do cổ điển,[125] tìm cách kích thích nền kinh tế bằng việc cắt giảm thuế lớn và rộng khắp mọi giới.[126][127] Ông cũng ủng hộ đưa Hoa Kỳ trở lại sử dụng một số tiêu chuẩn dựa trên bản vị vàng, và thành công hối thúc Quốc hội Hoa Kỳ thiết lập Ủy ban Bản vị vàng Hoa Kỳ để nghiên cứu cách thức nào để có thể thực hiện. Nhắc lại các lý thuyết kinh tế của Arthur Laffer, Reagan vận động cắt giảm thuế như đã đề nghị nhằm kích thích một cách tiềm năng vào nền kinh tế, đủ để mở rộng nền tảng thuế, cân bằng lại sự mất mát thu nhập thuế do tỉ lệ thuế giảm. Kinh tế kiểu Reagan (Reaganomics) là chủ đề tranh luận giữa những người ủng hộ và chỉ trích. Những người ủng hộ chỉ ra những cải thiện trong một số chỉ số kinh tế chủ lực để làm bằng chứng cho thấy sự thành công của Reaganomics trong khi đó những người chỉ trích tấn công vào sự gia tăng ngày càng lớn sự thâm thủng ngân sách liên bang và nợ quốc gia. Chính sách "hòa bình qua sức mạnh" của ông (cũng còn được mô tả là "chắc chắn và công bằng") dẫn đến sự gia tăng xây dựng quốc phòng thời bình trong đó con số chi tiêu thật sự cho quốc phòng tăng lên đến 40% giữa khoảng thời gian năm 1981 và năm 1985.[128]

Trong thời gian làm tổng thống của Reagan, tỉ lệ thuế thu nhập liên bang được hạ thấp đáng kể khi Đạo luật Phục hồi Kinh tế 1981 được thông qua với sự ủng hộ của cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa.[129] Đạo luật này hạ thấp nhóm tỉ lệ thuế đỉnh điểm từ 70% xuống 50% (nhóm có thu nhập cao nhất) và nhóm tỉ lệ thuế thấp nhất (nhóm có thu nhập thấp nhất) từ 14% đến 11%. Tuy nhiên các thứ thuế khác lại bị gia tăng, do Quốc hội Hoa Kỳ thông qua và được ký bởi Reagan, nhằm bảo đảm nguồn thu nhập thuế trong khoảng thời gian hai nhiệm kỳ của ông là 18,2% GDP so với 18,1% trong khoảng thời gian dài 40 năm giữa 1970-2010.[130] Sau đó vào năm 1982, Đạo luật Liên hợp Đào tạo Việc làm 1982 được ký thành luật, khởi sự một trong số các nhóm liên hợp giữa tư nhân và công chính đầu tiên của quốc gia và là một phần chủ yếu của chương trình tạo việc làm của tổng thống. Trợ tá Bộ trưởng Lao động và Chánh văn phòng, Al Angrisani, là kiến trúc sư chính của đạo luật này. Đạo luật Cải cách Thuế 1986, một cố gắng khác của lưỡng đảng và được Reagan cổ vũ, tiếp tục giảm nhóm tỉ lệ thuế điểm đỉnh xuống đến 28% nhưng lại tăng nhóm tỉ lệ thuế đáy từ 11% lên 15% và cùng lúc đó cắt con số nhóm tỉ lệ thuế xuống còn 4 nhóm.

Ngược lại, Quốc hội thông qua và Reagan ký thành luật để tăng một số loại thuế mỗi năm từ 1981 đến 1987 để tài trợ các chương trình của chính phủ, thí dụ như Đạo luật Trách nhiệm Tài chính và Thu hồi Thuế (Tax Equity and Fiscal Responsibility Act of 1982, gọi tắt là TEFRA), an sinh xã hội, và Đạo luật Giảm Thâm hụt 1984 (Deficit Reduction Act of 1984, gọi tắt là DEFRA).[131][132] Mặc dù thực tế TEFRA là "sự tăng thuế thời bình lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ" nhưng người ta lại biết đến Reagan nhiều hơn vì các vụ giảm thuế cũng như triết lý thuế thấp của ông.[132][133][134][135] Tổng sản phẩm nội địa (GDP) hồi phục mạnh sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế đầu thập niên 1980 kết thúc năm 1982, và phát triển trong suốt tám năm tổng thống của ông với tỉ lệ tăng trưởng hàng năm là 3,85%.[136] Nạn thất nghiệp lên điểm đỉnh 10.8% vào tháng 12 năm 1982 — cao hơn bất cứ thời gian nào kể từ thời đại khủng hoảng — sau đó hạ xuống trong suốt phần còn lại trong thời làm tổng thống của ông.[137] Mười sáu triệu việc làm mới được tạo ra trong khi đó lạm phát giảm đáng kể.[138] Hiệu quả thực giá của tất cả các đạo luật thuế thời tổng thống Reagan là nguồn thu nhập của chính phủ bị giảm 1% khi so sánh với các ước tính về thu nhập của Bộ Ngân khố Hoa Kỳ dự toán lúc ban đầu.[139] Tuy nhiên, tiền thu được từ thuế thu nhập liên bang đã gia tăng từ 1980 đến 1989, tăng từ $308,7 tỉ lên đến $549 tỉ.[140]

Trong suốt thời tổng thống Reagan, tiền thu của liên bang gia tăng với tỉ lệ trung bình 8,2% (2,5% là do tiền thu cao hơn từ thuế An sinh Xã hội), và chi tiêu liên bang gia tăng với tỉ lệ hàng năm là 7,1%.[141][142] Reagan cũng sửa đổi luật thuế bằng Đạo luật Cải cách Thuế 1986 với sự ủng hộ của lưởng đảng.[143]

Tổng thống Reagan đọc diễn văn trước Quốc hội về Chương trình Hồi phục Kinh tế từ Tòa Quốc hội Hoa Kỳ ngày 28 tháng 4 năm 1981

Các chính sách của Reagan nêu lên rằng sự phát triển kinh tế sẽ xảy ra khi tỉ lệ thuế cận biên đủ thấp để thúc đẩy sự đầu tư,[144] sau đó sẽ kéo theo sự phát triển kinh tế gia tăng, việc làm và tiền lương tăng cao hơn. Những người chỉ trích thì gán cho nó là "nền kinh tế trickle-down" — đây là một niềm tin rằng các chính sách thuế mang lợi ích đến giới nhà giàu thì sau đó sẽ tạo ra một hiệu quả "trickle-down" (lan truyền dần xuống) đến người nghèo.[145] Những câu hỏi được đặt ra là có phải các chính sách của Reagan đã mang lợi ích đến cho giới nhà giàu hơn là những ai sống trong nghèo khổ.[146] Nhiều người thiểu số và người nghèo xem Reagan không quan tâm đến những khó khăn của họ.[146] Những quan điểm như thế xuất hiện thêm bởi sự thật rằng chính sách kinh tế của Reagan gồm có việc đóng băng lương tối thiểu ở mức $3,35 một giờ, cắt giảm trợ giúp liên bang dành cho chính quyền địa phương 60%, cắt giảm phân nửa ngân sách dành cho nhà ở công cộng và trợ giá thuê nhà, và loại bỏ chương trình cấp quỹ phát triển cộng đồng chống nghèo đói.[147] Khoảng cách mở rộng giữa giàu và nghèo đã bắt đầu trong thập niên 1970 trước khi các chính sách kinh tế của Reagan có hiệu lực.[148] Cùng lúc cắt giảm thuế năm 1981 đối với tỉ lệ thuế đỉnh điểm thông thường đánh vào thu nhập từ cho thuê mướn, Reagan cũng giảm tỉ lệ thuế tối đa đánh vào lợi nhuận tài chính (từ chứng khoán, tiền tiết kiệm) xuống còn 20%.[149] Reagan sau đó định lại tỉ lệ thuế đánh vào lợi nhuận tài chính (từ chứng khoán, tiền tiết kiệm) bằng với tỉ lệ thu nhập thông thường là tiền lương. Tỉ lệ cao nhất cho cả hai thứ thuế này là 28%.[150] Reagan được xem là một anh hùng chống thuế mặc dù tăng thuế 11 lần trong suốt thời gian làm tổng thống, tất cả với danh nghĩa là trách nhiệm năm tài chính.[151] Theo Paul Krugman, "Chung qui lại, việc tăng thuế năm 1982 đã vô hiệu khoảng một phần ba việc giảm thuế năm 1981; nếu so sánh theo tổng sản lượng nội địa, việc tăng thuế này cao hơn việc tăng thuế của tổng thống Clinton năm 1993 một cách đáng kể."[152] Theo sử gia kiêm cố vấn chính sách đối nội Bruce Bartlett, các lần tăng thuế của Reagan trong suốt thời gian làm tổng thống đã lấy lại phân nửa giá trị của lần giảm thuế năm 1981.[153]

Xa hơn nữa khi theo đuổi các quan điểm ít can thiệp của chính phủ, Reagan cắt giảm các ngân sách phi quân sự[154][155] trong đó có chương trình trợ giúp y tế, chương trình phiếu mua thực phẩm, các chương trình giáo dục liên bang[154]Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ.[156] Trong khi ông bảo vệ các chương trình như An sinh Xã hội và chăm sóc sức khỏe,[157] thì chính phủ của ông lại tìm cách loại bỏ nhiều người tàn tật ra khỏi danh sách hưởng chế độ tàn tật thuộc quỹ An sinh Xã hội.[158]

Lập trường của chính phủ đối với nền công nghiệp tiết kiệm và cho vay đã góp phần tạo ra cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay.[159] Theo một nhóm thiểu số những người chỉ trích thuyết Reaganomics thì các chính sách này một phần có ảnh hưởng đến vụ sụp đổ thị trường chứng khoán năm 1987,[160] nhưng không có sự đồng thuận nào nói rằng đây là cuội nguồn duy nhất gây ra vụ sụp đổ thị trường chứng khoán.[161] Để lấp những khoản thâm hụt ngân sách liên bang vừa mới lan tràn, Hoa Kỳ vay mượn rất nhiều cả trong và ngoài nước, làm tăng nợ quốc gia từ $997 tỉ lên đến $2,85 ngàn tỷ đô la.[162] Reagan mô tả mức nợ mới này là "nổi thất vọng lớn lao nhất" trong thời làm tổng thống của ông.[138]

Ông tái bổ nhiệm Paul Volcker làm chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang, và năm 1987 ông bổ nhiệm nhà tiền tệ học Alan Greenspan kế nhiệm Paul Volcker. Reagan kết thúc sự kiểm soát tiền tệ trên dầu lửa trong nước mà từng góp phần gây ra các cuộc khủng hoảng năng lượng trong đầu thập niên 1970.[163][164] Giá dầu lửa từ từ giảm xuống và vào thập niên 1980 không còn thiếu nhiên liệu nữa như trong thập niên 1970.[165] Reagan cũng thực hiện lời hứa vận động tranh cử vào năm 1980 là bãi bỏ thuế lợi nhuận đột xuất (windfall profit tax) năm 1988 mà trước đây từng làm tăng sự lệ thuộc vào dầu lửa ngoại quốc.[166] Một số nhà kinh tế, như người đoạt giải Nobel Milton FriedmanRobert A. Mundell, cho rằng các chính sách thuế của Reagan đã làm tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế Mỹ và góp phần mang đến một cuộc bùng nổ kinh tế vào thập niên 1990.[167] Các nhà kinh tế khác, như người thắng giải Nobel Robert Solow, cho rằng những thâm thụt ngân sách là lý do chính yếu tại sao người kế nhiệm Reagan là George H. W. Bush đã không giữ được lời hứa lúc vận động tranh cử tổng thống và kết cuộc lại phải tăng các thứ thuế.[167]

Trong suốt thời Reagan làm tổng thống, một chương trình đã được khởi sự bên trong cộng đồng tình báo Hoa Kỳ để bảo đảm sức mạnh kinh tế của Hoa Kỳ. Chương trình với tên gọi "Dự án Socrates" phát triển và chứng thực các phương tiện cần thiết để Hoa Kỳ tạo ra và dẫn đầu bước nhảy tiến hóa tiếp theo trong việc tiếp thu và sử dụng kỹ thuật để có một lợi thế cạnh tranh - đó là các sáng kiến phát minh tự động hóa. Để bảo đảm rằng Hoa Kỳ đạt được lợi ích tối đa từ sáng kiến phát minh tự động hóa, trong nhiệm kỳ hai, Reagan thảo ra một lệnh hành pháp nhằm lập ra cơ quan liên bang mới để thực hiện các kết quả từ Dự án Socrates trên cơ bản toàn quốc. Tuy nhiên, nhiệm kỳ hai của Reagan kết thúc trước khi lệnh hành pháp có thể được điều phối và ký thông qua. Chính phủ mới của tổng thống Bush chỉ coi Dự án Socrates như một "chính sách công nghiệp" và kết thúc dự án này.[168][169]

Liban và Chiến dịch Urgent Fury (Grenada) năm 1983

Reagan nói chuyện với Thủ tướng Eugenia Charles của Dominica trong Văn phòng Bầu dục về các sự kiện đang diễn ra tại Grenada

Lực lượng gìn giữ hòa bình của Mỹ tại Beirut, một thành phần trong lực lượng đa quốc gia trong thời gian Nội chiến Liban, trước đó được Reagan triển khai, bị tấn công ngày 23 tháng 10 năm 1983. Vụ đánh bom doanh trại quân Mỹ bởi một kẻ đánh bom tự sát bằng xe tải tại Beirut đã làm cho 241 binh sĩ Mỹ thiệt mạng và làm bị thương hơn 60 người khác. Reagan phái một toán nhân sự Tòa Bạch Ốc, dẫn đầu bởi phó tổng thống của ông là George H.W. Bush, đến nơi đánh bom bốn ngày sau đó. Reagan gọi vụ tấn công này là "hèn hạ", cam đoan giữ lực lượng quân sự ở lại Liban, và hoạch định mục tiêu nhắm vào bản doanh Sheik Abdullah tại Baalbek, Liban, một cơ sở huấn lệnh cho các chiến binh Hezbollah,[170][171] nhưng sứ mệnh này sau đó bị rút lại. Ngày 7 tháng 2 năm 1984, Tổng thống Reagan ra lệnh cho thủy quân lục chiến bắt đầu rút quân khỏi Liban. Tháng tư năm 1984, trong bài diễn văn chủ đạo đọc trước 20.000 người tham dự đại hội "Baptist Fundamentalism '84" của mục sư Jerry Falwell tại Washington, D.C., ông đọc bản tường trình đầu tiên về vụ đánh bom do người tuyên giáo hải quân Arnold Resnicoff viết. Resnicoff là người được yêu cầu viết bản tường trình cho phó tổng thống và nhiệm vụ tìm hiểu sự thật vụ đánh bom.[172] Osama bin Laden sau này dẫn giải sự rút quân của Reagan như dấu hiệu suy yếu của người Mỹ.[173]

Ngày 25 tháng 10 năm 1983, chỉ hai ngày sau, Reagan ra lệnh lực lượng Hoa Kỳ xâm chiếm Grenada với mật danh là Chiến dịch Urgent Fury. Nơi đây đã xảy ra một vụ đảo chính năm 1979 và dựng lên một chính phủ không liên kết theo Chủ nghĩa Marx-Lenin. Sự can thiệp của lực lượng Hoa Kỳ là kết quả của một lời kêu gọi chính thức từ Tổ chức các quốc gia Đông Caribbe (OECS); Tổng thống Reagan cũng viện lẽ về một sự đe dọa trong vùng vì Liên Xô và Cuba tăng cường xây dựng quân sự tại vùng Caribbe và mối quan tâm về sự an toàn của hàng trăm sinh viên y khoa Mỹ tại Đại học St. George's như lý do để thực hiện vụ xâm chiếm. Chiến dịch Urgent Fury là một chiến dịch quân sự lớn đầu tiên của các lực lượng Hoa Kỳ kể từ Chiến tranh Việt Nam. Sau mấy ngày giao tranh, lực lượng Hoa Kỳ giành được chiến thắng [174] với tổn thất 19 binh sĩ Mỹ thiệt mạng và 116 binh sĩ khác bị thương.[175] Giữa tháng 12, sau khi một chính phủ mới được toàn quyền bổ nhiệm, lực lượng Hoa Kỳ rút quân khỏi Grenada.[174]

Leo thang chiến tranh lạnh

Reagan leo thang chiến tranh lạnh, tăng tốc đảo ngược chính sách "détente" (giảm thiểu căng thẳng để chung sống hòa bình) bắt đầu từ năm 1979 theo sau sự kiện Chiến tranh Xô Viết tại Afghanistan.[176] Reagan ra lệnh tăng cường khổng lồ việc xây dựng các lực lượng quân sự Hoa Kỳ[128] và thực hiện các chính sách mới đối đầu với Liên Xô: tái lập chương trình oanh tạc cơ B-1 Lancer mà đã bị chính phủ Carter hủy bỏ, và sản xuất tên lửa MX.[177] Để đáp trả việc Liên Xô triển khai tên lửa SS-20, Reagan giám sát việc triển khai tên lửa Pershing của NATO tại Tây Đức.[178]

Reagan, tổng thống Mỹ đầu tiên đọc diễn văn trước Nghị viện Vương quốc Anh, tiên đoán rằng chủ nghĩa Marx-Lenin sẽ bị bỏ lại trong đống tro tàn của lịch sử.[179]

Cùng với thủ tướng Vương quốc Anh Margaret Thatcher, Reagan lên án Liên Xô bằng những thuật ngữ tư tưởng.[180] Trong một bài diễn văn nổi tiếng ngày 8 tháng 6 năm 1982 trước Nghị viện Vương quốc Anh trong phòng triển lãm hoàng gia tại Cung điện Westminster, Reagan nói, "bước chân tiến tới của tự do và dân chủ sẽ bỏ Chủ nghĩa Marx-Lenin trên đóng tro tàn của lịch sử".[181][182] Ngày 3 tháng 3 năm 1983, ông tiên đoán chủ nghĩa cộng sản sẽ sụp đổ và nói rằng, "Chủ nghĩa cộng sản là một chương khác dị thường và đáng buồn trong lịch sử nhân loại mà những trang cuối của nó thậm chí hiện nay vẫn còn đang được viết."[183] Trong một bài diễn văn trước Hội Evangelical Quốc gia ngày 8 tháng 3 năm 1983, Reagan gọi Liên Xô là "một đế quốc ma quỷ".[184]

Sau khi Liên Xô bắn rơi chuyến bay 007 của Korean Air Lines gần đảo Moneron ngày 1 tháng 9 năm 1983, có chở 269 người trong đó có nghị sĩ tiểu bang GeorgiaLarry McDonald, Reagan cho hành động này là một vụ "thảm sát" và tuyên bố rằng người Liên Xô đã quay lại "chống thế giới và những giáo huấn đạo lý mà hướng dẫn các mối quan hệ giữa con người với con người ở mọi nơi".[185] Chính phủ Reagan đáp trả sự kiện này bằng việc ngưng dịch vụ hàng không thương mại của Liên Xô đến Hoa Kỳ, và hủy bỏ một số thỏa ước đang được thảo luận với Liên Xô, gây thiệt hại tài chính cho họ.[185] Với hậu quả của vụ bắn rơi máy bay và nguyên nhân chuyến bay 007 bay trật khỏi đường bay có liên quan đến hệ thống hoa tiêu của nó, Reagan thông báo vào ngày 16 tháng 9 năm 1983 rằng Hệ thống Định vị Toàn cầu được cho phép sử dụng trong dân sự và được miễn phí để tránh xảy ra lỗi kỹ thuật về hoa tiêu trong tương lai.[186][187]

Tổng thống Reagan họp với các lãnh tụ chiến binh hồi giáo Mujahideen của Afghanistan tại Văn phòng Bầu dục năm 1983

Dưới một chính sách được biết đến như học thuyết Reagan, Reagan và chính phủ của ông cũng cung cấp trợ giúp công khai và cả bí mật cho các phong trào du kích chống cộng trong một cố gắng nhằm thay thế các chính phủ cộng sản do Liên Xô hậu thuẫn tại châu Phi, châu Áchâu Mỹ Latin.[188] Reagan triển khai phân bộ hoạt động đặc biệt của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ đến AfghanistanPakistan. Phân bộ này là có nhiệm vụ huấn luyện, trang bị và lãnh đạo các lực lượng chiến binh hồi giáo Mujaheddin chống quân đội Liên Xô.[189][190] Chương trình hành động bí mật của Tổng thống Reagan có công trong việc giúp kết thúc sự chiếm đóng của Liên Xô tại Afghanistan,[191] mặc dù số lượng vũ khi mà Hoa Kỳ cung cấp lúc đò lại trở thành mối đe dọa sau này cho các lực lượng của Hoa Kỳ trong chiến tranh Afghanistan vào thập niên 2000.[192] Tuy nhiên, trong một hành động cắt ngang chính sách cung cấp vũ khí cho Đài Loan của chính phủ Carter theo Đạo luật Quan hệ Đài Loan, Reagan cũng đồng ý giảm bán vũ khí cho Đài Loan với chính phủ cộng sản tại Trung Quốc.[193]

Tháng 3 năm 1983, Reagan giới thiệu Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược (viết tắt theo tiếng Anh là SDI ), một dự án quốc phòng[194] mà sẽ sử dụng các hệ thống có căn cứ trên không gian và mặt đất để bảo vệ Hoa Kỳ khỏi các cuộc tấn công bằng tên lửa hạt nhân liên lục địa chiến lược.[195] Reagan tin rằng lá chắn quốc phòng này có thể khiến cho chiến tranh hạt nhân không thể xảy ra,[194][196] nhưng không tin tưởng rằng kỹ thuật như thế có thể hoạt động. Việc này khiến những người chống đối chương trình gán cho Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược cái tên là "Chiến tranh giữa các vì sao" và cho rằng mục tiêu kỹ thuật là không thể nắm bắt được.[194] Liên Xô trở nên lo lắng về hiệu quả có thể có mà SDI sẽ mang lại lợi thế cho Hoa Kỳ;[197] nhà lãnh đạo Yuri Andropov nói rằng nó sẽ đặt "toàn thế giới trong nguy cơ chạy đua vũ trang".[198] Vì những lý do đó, David Gergen, một cựu phụ tá của Tổng thống Reagan, sau khi gợi lại ký ức, tin rằng Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược đã giúp kết thúc chiến tranh lạnh một cách vội vã.[199]

Những người chỉ trích gán cho các chính sách ngoại giao của Reagan là hung hăng, mang tính đế quốc, và trách móc chúng là "hiếu chiến" tuy chúng được ủng hộ bởi những người đứng đầu chủ nghĩa bảo thủ Mỹ. Những người này cho rằng các chính sách như thế là cần thiết để bảo vệ lợi ích an ninh của Hoa Kỳ.[197]

Vận động tranh cử tổng thống năm 1984

Phiếu đại cử tri tổng thống năm 1984 theo tiểu bang. Reagan (màu đỏ) thắng hết mọi tiểu bang ngoại trừ tiểu bang nhà của Mondale là Minnesota (và Washington, D.C.)

Reagan nhận đề cử của đảng Cộng hòa tại Dallas, Texas. Ông tuyên bố rằng "bình minh lại đến nước Mỹ",[20] hàm ý nói đến nền kinh tế đang phục hồi và sự biểu diễn vượt trội của các vận động viên Hoa Kỳ tại Thế vận hội Mùa hè 1984, trong số nhiều sự việc khác. Ông trở thành tổng thống Mỹ đầu tiên khai mạc một thế vận hội được tổ chức tại Hoa Kỳ.[200]

Đối thủ của Reagan trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1984 là cựu phó tổng thống Walter Mondale. Với những câu hỏi về tuổi tác của ông và sự diễn đạt yếu kém trong lần tranh luận tổng thống đầu tiên của ông, người ta bắt đầu nghi ngờ đến khả năng thực hiện những nhiệm vụ tổng thống của ông thêm một nhiệm kỳ nữa. Hành vi và cách xử trí dễ quên và lầm lẫn thấy rõ của ông là bằng chứng khiến những người ủng hộ ông quan tâm vì họ đã từng biết đến ông là một người thông minh và dí dỏm. Những tin đồn bắt đầu lan rộng rằng ông bị bệnh mất trí nhớ.[201][202] Reagan lật ngược thế cờ trong cuộc tranh luận tổng thống lần thứ hai, và đối chất với những câu hỏi về tuổi tác của ông. Ông nói nước đôi rằng "Tôi sẽ không coi tuổi tác là một vấn đề trong cuộc vận động tranh cử này. Tôi sẽ không khai thác sự thiếu kinh nghiệm và tuổi trẻ của đối thủ mình vì mục đích chính trị". Lời nói của ông tạo nên tiếng cười rộ và tiếng vỗ tay, ngay cả từ chính đối thủ của ông là Mondale.[203]

Tháng 11, Reagan tái đắc cử tổng thống, thắng 49 trong số 50 tiểu bang.[204] Ở tuổi 73 khi thắng cử, ông là người cao tuổi nhất được bầu làm tổng thống.[205] Chiến thắng áp đảo của ông khiến cho Mondale chỉ thắng được tiểu bang nhà của mình là Minnesota (bằng sai khác 3800 phiếu phổ thông) và Đặc khu Columbia. Reagan thắng kỷ lục 525 phiếu đại cử tri, con số cao nhất đối với bất cứ ứng viên nào trong lịch sử Hoa Kỳ,[205] và nhận được 58,8% số phiếu phổ thông so với Mondale là 40,6%.[204]

Nhiệm kỳ thứ hai 1985–1989

Ronald Reagan tuyên thuệ nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ hai trong gian phòng tròn của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ

Reagan tuyên thuệ nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ hai vào ngày 20 tháng 1 năm 1985 trong một buổi lễ riêng tại Tòa Bạch Ốc. Vì 20 tháng 1 rơi vào ngày chủ nhật nên buổi lễ công cộng không được tổ chức nhưng được tiến hành tại gian phòng tròn của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày hôm sau. Ngày 21 tháng 1 là một ngày lạnh kỷ lục nhất tại Washington, D.C.; vì thời tiết xấu, buổi lễ nhậm chức được tổ chức bên trong tòa quốc hội. Trong những tuần kế tiếp, ông tái cơ cấu chút ít về nhân sự, chuyển chánh văn phòng Tòa Bạch Ốc James Baker làm bộ trưởng ngân khố và bộ trưởng ngân khố Donald Regan, cựu viên chức của công ty Merrill Lynch, làm chánh văn phòng.[206][206]

Năm 1985, Reagan thăm viếng nghĩa trang quân sự Đức tại Bitburg để đặt vòng hoa cùng với Thủ tướng Tây Đức là Helmut Kohl. Khi biết được nghĩa trang này có mộ phần của bốn mươi chín thành viên của Waffen-SS, Reagan đưa ra lời tuyên bố, gọi các binh sĩ Đức Quốc xã được chôn cất trong nghĩa trang này cũng chính là "nạn nhân". Lời tuyên bố này gây xôn xao rằng chẳng lẽ Reagan coi các thành viên SS ngang hàng với nạn nhân của Holocaust; Pat Buchanan, Giám đốc Thông tin của Reagan, cho rằng tổng thống không coi các thành viên SS ngang hàng với nạn nhân Holocaust thật sự.[207] Lúc này khi bị hối thúc hủy bỏ cuộc viếng thăm một cách mạnh mẽ,[208] Reagan đáp lại rằng thật là sai lầm phải rút lại lời hứa với Thủ tướng Kohl. Sau cùng ông dự buổi lễ mà tại đó hai vị tướng quân đội đặt một vòng hoa.[209]

Reagan nói chuyện trước quốc dân sau vụ tai nạn phi thuyền con thoi Challenger

Vụ tai nạn phi thuyền con thoi Challenger ngày 28 tháng 1 năm 1986 khiến cho bảy phi hành gia bị thiệt mạng.[210] Vào đêm tai nạn, Reagan đọc một bài diễn văn do Peggy Noonan viết trong đó ông nói rằng:

Tương lai không thuộc về những người yếu tim; nó thuộc về những người can đảm... Chúng ta sẽ không bao giờ quên họ, cũng không quên lần cuối cùng chúng ta thấy họ, vào buổi sáng hôm nay, khi họ chuẩn bị cho cuộc hành trình và vẫy tay chào tạm biệt và 'trượt sức hút gắt gỏng của địa cầu để chạm mặt Thượng đế.'[211]

Chiến tranh chống ma túy

Vào nữa nhiệm kỳ hai, Reagan công bố nhiều chính sách quân sự hơn trong cuộc chiến chống ma túy. Ông nói rằng "ma túy đang gây bệnh hoạn cho xã hội chúng ta". Ông hứa tranh đấu cho nơi làm việc và trường học không có ma túy, mở rộng điều trị nghiện ma túy, nỗ lực nghiêm cấm ma túy, lực lượng thi hành luật pháp phải lớn mạnh hơn, và gia tăng sự nhận thức của công chúng tốt hơn.[212][213]

Năm 1986, Reagan ký đạo luật thi hành chống ma túy với ngân sách $1,7 tỷ đô la để tài trợ cho cuộc chiến chống ma túy và ấn định hình phạt tối thiểu bắt buộc đối với những kẻ vi phạm luật chống ma túy.[214] Đạo luật này bị chỉ trích vì nó làm gia tăng sự mất cân đối chủng tộc đáng kể trong số tù nhân trong nước[214] và những người chỉ trích cũng tố cáo rằng các chính sách này chỉ có ít hiệu lực làm giảm số ma túy lưu hành trên đường phố trong khi đó mang đến gánh nặng tài chính cho nước Mỹ.[215] Những người ủng hộ nỗ lực này nêu lên sự thành công trong việc làm giảm tỉ lệ sử dụng ma túy trong giới thanh thiếu niên.[216][217] Đệ Nhất Phu nhân Nancy Reagan coi cuộc chiến chống ma túy là ưu tiên chính của bà bằng cuộc vận động nhận thức về ma túy "Just Say No" với mục đích ngăn chặn trẻ em và thiếu niên không sử dụng ma túy như thú giải trí qua nhiều cách nói "không" khác nhau. Nancy Reagan đã đến 65 thành phố trong 33 tiểu bang để vận động sự nhận thức về tác hại của ma túy bao gồm cả chất rượu cồn.[218]

Không kích Libya

Quan hệ giữa Libya và Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Reagan tiếp tục xấu đi, bắt đầu với sự kiện vịnh Sidra năm 1981. Năm 1982, nhà lãnh đạo Libya Muammar Gaddafi bị CIA xem là đồng minh của nhà lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev và nhà lãnh đạo Cuba Fidel Castro,[219] là phần tử của một nhóm được biết với tên gọi "unholy trinity" (ba ngôi bất thánh thiện)[219] và cũng bị một viên chức CIA gán cho cái tên là "kẻ thù quốc tế công khai số một của chúng ta".[219] Những căng thẳng này sau đó lại tái phát sinh vào đầu tháng 4 năm 1986 khi một quả bom phát nổ tại một quán nhảy disco trong thành phố Berlin, làm bị thương 63 quân nhân Mỹ và một binh sĩ khác thiệt mạng.[220] Cho rằng có bằng chứng không thể chối cải là Libya chỉ thị "vụ đánh bom khủng bố", Reagan ra lệnh sử dụng lực lượng chống Libya.[220] Vào cuối ngày 15 tháng 4 năm 1986, Hoa Kỳ mở màn một loại không kích vào các mục tiêu trên đất liền tại Libya.[220][221] Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh Margaret Thatcher cho phép Không quân Hoa Kỳ sử dụng các căn cứ tại Anh để mở cuộc tấn công với viện lẽ rằng Vương quốc Liên hiệp Anh ủng hộ quyền tự vệ của Mỹ theo Điều khoản 51 trong Hiến chương Liên hiệp quốc.[221] Cuộc tấn công được hoạch định để ngăn chặn "khả năng xuất khẩu khủng bố" của Gaddafi, cho ông ta "sáng kiến và lý do để thay đổi hành vi tội ác của mình".[220] Tổng thống nói chuyện trước quốc dân từ Văn phòng Bầu dục sau khi vụ không kích được thông báo. Ông nói rằng "Khi công dân của chúng ta bị tấn công hay bị lạm dụng khắp nơi trên thế giới qua chỉ thị trực tiếp của các chế độ thù địch, chúng ta sẽ đáp trả khi mà tôi còn ở trong văn phòng này."[221] Vụ tấn công bị nhiều quốc gia lên án. Với số phiếu 79 ủng hộ so với 28 phiếu chống và 33 phiếu trắng, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua Nghị quyết 41/38 lên án cuộc tấn công quân sự chống Libya ngày 15 tháng 4 năm 1986.[222]

Di dân

Reagan ký Đạo luật Kiểm soát và Cải cách Di dân năm 1986. Đạo luật này bất hợp pháp hóa việc thuê mướn hoặc tuyển mộ các di dân mà giới chủ nhân biết rõ là di dân bất hợp pháp, bắt buộc các chủ nhân phải chứng minh tình trạng di trú của các công nhân. Đạo luật này cũng ân xá cho khoảng 3 triệu di dân bất hợp pháp vào Hoa Kỳ trước ngày 1 tháng 1 năm 1982 và đã sống liên tục tại nước Mỹ. Những người chỉ trích cho rằng việc cấm vận giới chủ nhân không có răng đe và thất bại trong việc ngăn chặn di dân bất hợp pháp.[223] Ngay sau khi ký đạo luật trong một buổi lễ được tổ chức bên trong Tượng Nữ thần Tự do vừa mới được trùng tu, Reagan nói, "các điều khoản hợp pháp hóa trong đạo luật này sẽ đi xa hơn để cải thiện cuộc sống của một tầng lớp cá nhân mà hiện nay phải trốn trong bóng tối, không có được lối tiếp cận đến nhiều lợi ích của một xã hội cưởi mở và tự do. Chẳng mấy chốc, nhiều người đàn ông và đàn bà sẽ có thể bước ra ánh sáng mặt trời và, sau cùng, nếu họ chọn lựa, họ có thể trở thành người Mỹ."[224] Reagan cũng nói "Chương trình cấm vận giới chủ nhân là thành phần chính và then chốt. Nó sẽ loại bỏ động cơ khích lệ di dân bất hợp pháp qua việc loại bỏ cơ hội tìm việc làm mà lôi kéo người ngoại quốc bất hợp pháp đến đây."[224]

Vụ tai tiếng Iran–Contra

Tổng thống Reagan nhận báo cáo Tower tại Phòng Nội các của Tòa Bạch Ốc năm 1987

Năm 1986, một vụ tai tiếng làm rung động chính phủ Reagan. Vụ tai tiếng này bắt nguồn từ việc sử dụng tiền thu được trong vụ bán vũ khí bí mật cho Iran để tài trợ nhóm du kích Contras ở Nicaragua vốn từng bị đặt ra ngoài vòng pháp luật bởi một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ.[225][226] Vụ Iran–Contra trở thành vụ tai tiếng chính trị lớn nhất tại Hoa Kỳ trong thập niên 1980.[227] Mặc dù Hoa Kỳ tranh chấp thẩm quyền phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế,[228] tòa phán quyết rằng Hoa Kỳ đã vi phạm luật quốc tế và vi phạm các hiệp ước tại Nicaragua theo nhiều cách khác nhau.[229][230]

Tổng thống Reagan thừa nhận không biết sự tồn tại của âm mưu này. Ông bổ nhiệm hai đảng viên cộng hòa và một đảng viên Dân chủ (John Tower, Brent ScowcroftEdmund Muskie, được biết đến là "Ủy ban Tower") để điều tra vụ tai tiếng. Ủy ban không thể tìm ra bằng chứng trực tiếp là Reagan đã biết trước về chương trình này nhưng chỉ trích ông nặng nề vì buông lỏng kiểm soát nhân viên của mình, khiến cho việc chuyển dịch công quỹ có thể dễ dàng thực hiện được.[231] Một báo cáo riêng của Quốc hội Hoa Kỳ kết luận rằng "nếu tổng thống không biết các cố vấn an ninh quốc gia của mình đang làm gì thì tổng thống đáng ra đã biết."[231] Mức độ ủng hộ của công chúng dành cho Reagan xuống thấp từ 67% đến 46% trong non một tuần. Đây là mức độ giảm sút nhanh nhất và lớn nhất chưa từng có đối với một vị tổng thống.[232] Vụ tai tiếng này đưa đến kết quả là 14 viên chức của Reagan bị truy tố và 11 người bị kết án.[233]

Nhiều người ở Trung Mỹ chỉ trích Reagan vì ủng hộ nhóm du kích Contras, gọi ông là một kẻ quá khích chống cộng, làm ngơ trước các vụ vi phạm nhân quyền trong khi đó những người khác nói rằng ông "đã cứu Trung Mỹ".[234] Daniel Ortega, chủ tịch Nicaragua và Sandinista, nói rằng ông hy vọng Thượng đế sẽ tha thứ cho Reagan vì "cuộc chiến dơ bẩn chống Nicaragua" của Reagan.[234]

Kết thúc chiến tranh lạnh

Ronald Reagan nói chuyện trước Cổng Brandenburg tại Bức tường Berlin, thách thức Gorbachev "hãy phá đổ bức tường này!"

Vào đầu thập niên 1980, nhiều người tại Hoa Kỳ nhận định rằng khả năng quân sự của Liên Xô đang vượt bậc khả năng quân sự của Hoa Kỳ. Trước đó, Hoa Kỳ đã cậy vào sự siêu đẳng chất lượng vũ khí của mình để làm cho Liên Xô nể sợ nhưng khoảng cách dần thu hẹp.[235] Tuy Liên Xô không gia tăng chi tiêu quốc phòng sau khi tổng thống Reagan tăng cường xây dựng quốc phòng,[236] nhưng các chi tiêu quân sự lớn của họ, kết hợp với nền nông nghiệp tập thể hóa và kỹ nghệ sản xuất theo kế hoạch, là một gánh nặng khổng lồ đối với nền kinh tế Liên Xô.[237] Cùng thời gian đó, Ả Rập Xê Út gia tăng sản xuất dầu lửa,[238] khiến cho dầu lửa rớt giá trong năm 1985 xuống còn một phần ba mức giá trước đó. Dầu lửa là nguồn thu nhập xuất cảng chính yếu của Liên Xô.[237] Các yếu tố này dần dần đưa nền kinh tế Liên Xô đến tình trạng bi đát trong thời gian Gorbachev nắm quyền.[237]

Reagan nhận ra sự thay đổi chiều hướng của giới lãnh đạo Liên Xô dưới thời Mikhail Gorbachev vì vậy ông đã chuyển dịch sang ngoại giao với quan điểm khuyến khích giới lãnh đạo Liên Xô theo đuổi các thỏa thuận về tài giảm vũ khí đáng kể.[239] Sứ mệnh cá nhân của Reagan là có được "một thế giới không có vũ khí hạt nhân", thứ vũ khí mà ông coi là "hoàn toàn vô lý, hoàn toàn phi nhân, không gì tốt đẹp ngoài giết chóc, có thể hủy hoại sự sống trên Trái Đất và nền văn minh".[240][241][242] Ông đã có thể bắt đầu các cuộc thương thảo về giải trừ hạt nhân với Tổng bí thư Gorbachev.[242] Gorbachev và Reagan có bốn cuộc hội nghị thượng đỉnh giữa năm 1985 và 1988: hội nghị đầu tiên tại Genève, Thụy Sỉ, hội nghị thứ hai tại Reykjavík, Iceland, hội nghị thứ ba tại Washington, D.C., và hội nghị thứ tư tại Moskva.[243] Reagan tin rằng nếu ông có thể thuyết phục được người Liên Xô cho phép dân chủ hơn và tự do ngôn luận hơn thì điều này sẽ dẫn đến sự cải cách và chấm dứt chủ nghĩa cộng sản.[244]

Nói chuyện tại Bức tường Berlin ngày 12 tháng 6 năm 1987, Reagan thách thức Gorbachev đi xa hơn nữa qua lời nói:

"Tổng Bí thư Gorbachev, nếu ông mưu tìm hòa bình, nếu ông mưu tìm thịnh vượng cho Liên XôĐông Âu, nếu ông mưu tìm giải phóng, hãy đến đây nơi cổng này. Ông Gorbachev, hãy mở cổng này. Ông Gorbachev, hãy phá đổ bức tường này!"
Gorbachev và Reagan ký Hiệp ước Lực lượng Hạt nhân tầm trung tại Tòa Bạch Ốc năm 1987

Trước lúc Gorbachev viếng thăm Washington, D.C. cho cuộc hội nghị thượng đỉnh năm 1987, nhà lãnh đạo Liên Xô thông báo ý định của mình theo đuổi các hiệp định tài giảm vũ khí đáng kể.[245] Thời điểm về việc thông báo khiến các nhà ngoại giao phương Tây đoan chắc rằng Gorbachev đang đưa ra những nhượng bộ lớn đối với Hoa Kỳ về các tầm mức lực lượng thông thường, vũ khí hạt nhân, và chính sách tại Đông Âu.[245] Ông và Reagan ký Hiệp ước Lực lượng Hạt nhân tầm trung (Intermediate-Range Nuclear Forces Treaty hay viết tắt là INF Treaty) tại Tòa Bạch Ốc, loại bỏ hoàn toàn lớp vũ khi hạt nhân này.[246] Hai nhà lãnh đạo đặt khuôn sườn cho Hiệp ước Tài giảm Quân bị Chiến lược hay gọi tắt là START I; Reagan nhất mực rằng tên của hiệp ước này nên đổi từ Đàm phán Hạn chế Quân bị Chiến lược thành Đàm phán Tài giảm Quân bị Chiến lược.[241]

Khi Reagan viếng thăm Moskva cho hội nghị thượng đỉnh năm 1988, ông được người Liên Xô xem như một nhân vật nổi tiếng. Một nhà báo hỏi tổng thống rằng ông có còn xem Liên Xô là một đế quốc ma quỹ nữa không. Ông trả lời "Không", "Tôi đang nói chuyện về một thời điểm khác, một thời đại khác."[247] Theo lời yêu cầu của Gorbachev, Reagan diễn thuyết về các nền kinh tế tự do tại Đại học Quốc gia Moskva.[248] Trong cuốn sách tự truyện của mình có tựa đề An American Life (Một cuộc đời Mỹ), Reagan diễn tả sự lạc quan của mình về chiều hướng mới mà họ cùng vẽ ra và cảm giác nồng ấm của ông dành cho Gorbachev.[249] Tháng 11 năm 1989, Bức tường Berlin bị phá sập, Chiến tranh lạnh chính thức được tuyên bố kết thúc tại hội nghị thượng đỉnh Malta ngày 3 tháng 12 năm 1989[250] và hai năm sau, Liên Xô sụp đổ.

Sức khỏe

Vào đầu thời gian làm tổng thống, Reagan bắt đầu đeo dụng cụ trợ thính với kỹ thuật tân tiến, lúc đầu là bên tai phải của ông[251] và sau đó cả bên tai trái.[252] Quyết định của ông công bố về việc ông đeo dụng cụ trợ thính vào năm 1983 đã giúp cho loại dụng cụ trợ thính này bán chạy.[253]

Ngày 13 tháng 7 năm 1985, Reagan trải qua cuộc giải phẫu tại Bệnh viện Hải quân Bethesda để lấy bướu ung thư khỏi ruột kết của ông. Ông trao quyền tổng thống cho phó tổng thống trong khoảng thời gian 8 tiếng đồng hồ cho cuộc giải phẫu theo như tu chính hiến pháp 25 đã quy định.[254] Cuộc giải phẫu chỉ kéo dài ba tiếng đồng hồ và thành công.[255] Reagan nhận lại quyền lực tổng thống sau đó trong ngày.[256] Tháng 8 năm đó, ông trải qua một cuộc giải phẫu để loại bỏ các tế bào ung thư da trên mũi của ông.[257] Vào tháng mười, thêm các tế bào ung thư da được phát hiện trên mũi của ông và chúng bị loại bỏ.[258]

Tháng 1 năm 1987, Reagan trải qua giải phẫu tuyến tiền liệt, gây thêm sự lo lắng về sức khỏe của ông. Tuy nhiên, không có phát hiện nào được tìm thấy về sự phát triển của ung thư và ông không phải bị gây mê cho cuộc giải phẫu.[259] Tháng 7 năm đó, vào tuổi 76, ông trải qua một cuộc giải phẫu ung thư da lần thứ ba trên mũi ông.[260]

Tư pháp

Trong suốt chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1980, Reagan tuyên bố rằng nếu có dịp, ông sẽ bổ nhiệm vị nữ thẩm phán tối cao pháp viện đầu tiên.[261] Dịp đó đã đến trong năm đầu tại chức của ông khi ông đề cử Sandra Day O'Connor ngồi vào chiếc ghế trống do Thẩm pháp Potter Stewart nghĩ hưu để lại. Trong nhiệm kỳ hai, Reagan đề bạt William Rehnquist thay thế Warren Burger làm Thẩm phán trưởng Hoa Kỳ, và đưa Antonin Scalia thay thế chiếc ghế trống William Rehnquist vừa rời bỏ. Reagan đề cử luật gia bảo thủ Robert Bork vào tòa thượng thẩm năm 1987. Thượng nghị sĩ Ted Kennedy, một đảng viên Dân chủ của tiểu bang Massachusetts, mạnh mẽ lên án Bork, và sự việc gây tranh cãi lớn xảy ra ngay sau đó.[262] Bork bị Thượng viện Hoa Kỳ bác bỏ với số phiếu 58–42.[263] Reagan sau đó đề cử Douglas Ginsburg, nhưng Ginsburg rút tên khỏi đề cử sau khi bị công kích vì sử dụng chất ma túy gai dầu (cannabis).[264] Sau cùng Anthony Kennedy được Thượng viện xác nhận thay thế vị trí này.[265] Cùng với việc bổ nhiệm ba thẩm phán tối cao pháp viện, Reagan bổ nhiệm 83 thẩm phán tòa thượng thẩm, và 290 thẩm phán tòa án khu vực.

Reagan cũng đề cử Vaughn R. Walker, người về sau này bị tiết lộ là thẩm phán liên bang đồng tính được biết đến trước nhất,[266] vào tòa án khu vực đặc trách Khu vực Trung tâm California. Tuy nhiên, sự đề cử này bị trì hoãn tại Thượng viện, và Walker không được xác nhận cho đến khi được người kế nhiệm Reagan là George H. W. Bush tái đề cử.[267]

Vào thời gian đầu tại chức, Reagan bổ nhiệm Clarence M. Pendleton, Jr. của San Diego, một người Mỹ gốc châu Phi đầu tiên, làm chủ tịch Ủy ban đặc trách Dân quyền Hoa Kỳ. Pendleton cố gắng lái ủy ban này theo hướng bảo thủ để phù hợp với những quan điểm của Reagan về chính sách dân quyền và xã hội trong suốt thời gian tại chức của ông từ năm 1981 cho đến khi ông đột ngột qua đời vào năm 1988. Pendleton chẳng bao lâu sau đó đã làm nhiều nhà hoạt động dân quyền và nữ quyền giận dữ khi ông chế nhạo lời đề nghị về quyền bình đẳng lương bổng như là "Looney Tunes" (loạt phim hoạt hình ngắn của Warner Bros).[268][269][270]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ronald_Reagan http://65.126.3.86/reagan/html/reagan08_17_92.shtm... //nla.gov.au/anbd.aut-an36591309 http://nla.gov.au/nla.news-article8208562 http://www.abc.net.au/radionational/programs/healt... http://www.cbc.ca/news/background/reagan_ronald/ http://radio.about.com/od/funradiothingstodo/a/aa0... http://www.americanheritage.com/content/evil-empir... http://www.boston.com/news/nation/articles/2004/06... http://www.boston.com/news/nation/articles/2008/02... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/492882